Kháng nguyên ung thư biểu mô phôi (CEA), được mô tả lần đầu tiên bởi Gold và Freedman vào năm 1965, được chiết xuất từ khối u gan di căn từ ung thư đại tràng và từ đường tiêu hóa bình thường của thai nhi. Đây là một trong những kháng nguyên liên quan đến ung thư ở người được nghiên cứu rộng rãi nhất. CEA là một nhóm các glycoprotein miễn dịch không đồng nhất có trọng lượng phân tử 200.000 dalton, trong đó carbohydrat chiếm 50 – 85% khối lượng. CEA là một thành viên của siêu họ globulin miễn dịch và xuất hiện với chức năng của một phân tử kết dính gian bào. Ngoài ra, đã có báo cáo cho thấy các phân tử có cấu trúc tương tự CEA (NCA, NCA-2, NFA) có trong mô của người trưởng thành khỏe mạnh.
Việc đo lường CEA huyết thanh cho thấy hiệu quả đáng kể trong tiên lượng và quản lý những bệnh nhân mắc các bệnh lý ác tính, đặc biệt là ung thư đại trực tràng. Chuỗi các giá trị xét nghiệm CEA có thể được sử dụng để theo dõi tình trạng bệnh nhân ung thư sau điều trị: tiến triển, thuyên giảm hay tái phát. Nồng độ CEA tăng kéo dài sau điều trị hoặc sau can thiệp phẫu thuật là dấu hiệu bệnh chưa được điều trị dứt điểm hoặc dấu hiệu bệnh tái phát. Trong khi đó, chuỗi nồng độ CEA giảm xuống mức bình thường cho thấy can thiệp điều trị thành công.
Nồng độ CEA cũng tăng trong huyết thanh những bệnh nhân không mắc các bệnh lý ác tính và những người nghiện thuốc lá nặng, do đó, không nên sử dụng chỉ số CEA trong chẩn đoán ung thư hoặc trong sàng lọc các bệnh nhân không có triệu chứng.
NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT
Xét nghiệm Access CEA là xét nghiệm miễn dịch enzyme hai vị trí gắn (kiểu “sandwich”), sử dụng hai loại kháng thể (đơn dòng, chuột) kháng CEA – những kháng thể này phản ứng với hai vị trí quyết định kháng nguyên (epitope) khác nhau trên CEA. Mẫu bệnh phẩm được cho vào giếng phản ứng cùng với kháng thể đơn dòng kháng CEA (loại kháng thể thứ nhất) cộng hợp với phosphatase kiềm và kháng thể đơn dòng kháng CEA thứ hai gắn với hạt thuận từ. Sau bước ủ phản ứng là bước tách từ và bước rửa. Tiếp đó, chất nền quang hóa Lumi-Phos 530 được thêm vào giếng phản ứng và ánh sáng tạo ra bởi phản ứng được đo bằng bộ phận đo quang. Cường độ ánh sáng tạo ra tỷ lệ thuận với nồng độ CEA có trong mẫu bệnh phẩm. Lượng chất cần phân tích có trong mẫu bệnh phẩm được xác định thông qua một đường cong chuẩn đa điểm đã lưu trong máy.
MẪU BỆNH PHẨM SỬ DỤNG
LẤY VÀ CHUẨN BỊ MẪU
Khuyến cáo sử dụng mẫu huyết thanh.
Thực hiện theo quy trình khuyến cáo sau đây đối với việc thao tác, thực hiện và bảo quản các bệnh phẩm máu:
Lấy máu tĩnh mạch theo quy trình thường quy.
Đối với các mẫu lấy huyết thanh: Để cục máu đông co lại hoàn toàn trước khi ly tâm.
Luôn đậy nắp bệnh phẩm.
Phân tách các tế bào máu khỏi huyết thanh hoặc huyết tương sớm nhất có thể.
Bảo quản mẫu bệnh phẩm đã đậy nắp ở nhiệt độ phòng (15-30°C) trong không quá 8 tiếng.
Nếu xét nghiệm không hoàn tất trong vòng 8 tiếng, bảo quản bệnh phẩm ở 2-8°C.
Nếu xét nghiệm không hoàn tất trong vòng 48 tiếng hoặc khi cần vận chuyển bệnh phẩm, bảo quản đông lạnh ở -20°C hoặc lạnh hơn.
Thực hiện theo hướng dẫn sau đây khi chuẩn bị mẫu:
Thực tế tại khoa Hóa Sinh BVĐK Đức Giang sử dụng huyết tương được chống đông bằng heparin để làm xét nghiệm. Máu tĩnh mạch bệnh nhân được thu thập vào ống nghiệm có chống đông bằng heparin sau đó được ly tâm ở tốc độ 3.500 vòng/phút x 5 phút để thu thập huyết tương.
Ý NGHĨA LÂM SÀNG
- Xét nghiệm CEA có thể được chỉ định khi một người đã được chẩn đoán ung thư đại trực tràng, dạ dày, phổi. CEA sẽ được định lượng trước khi bắt đầu điều trị và sau đó được xét nghiệm theo thời gian để đánh giá hiệu quả điều trị, tiên lượng và phát hiện tái phát, di căn.
- Đôi khi xét nghiệm CEA có thể được thực hiện khi nghi ngờ ung thư nhưng chưa được chẩn đoán. Đây không phải là một xét nghiệm sử dụng chung cho các ung thư vì CEA có thể tăng trong nhiều bệnh lý khác nhau, tuy nhiên nó vẫn có thể được chỉ định để có thể cung cấp thêm thông tin cho chẩn đoán tùy bệnh cảnh lâm sàng cụ thể.
- Xét nghiệm CEA dịch cơ thể có thể được chỉ định để phát hiện khối u đã xâm lấn hoặc di căn đến các khoang trong cơ thể (ví dụ di căn lan rộng đến khoang phúc mạc, màng phổi hoặc não).
Thực tế tại khoa hóa sinh bệnh viện đa khoa Đức Giang bệnh nhân được chỉ định CEA chủ yếu từ phòng khám ung bướu chiếm 72,88% (43/59) . BN làm XN CEA có thẻ dùng với 3 mục tiêu khác nhau là sàng lọc ung thư, theo dõi hiệu quả điều trị và theo dõi di căn tái phát. Trong 3 mục tiêu thì mục tiêu theo dõi di căn tái phát chiếm tỷ lệ cao nhất, theo dõi kết quả điều trị xếp thấp nhất (xem biểu đồ bên dưới)
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ XÉT NGHIỆM
Các yếu tố gây nhiễu: hemoglobin, triglycerid, bilirubin, albumin huyết thanh người và yếu tố dạng thấp được xét nghiệm với nồng độ tương ứng lên đến 500 mg/dL, 1800 mg/dL, 30 mg/dL, 5 g/dL và 500 IU/mL, không gây ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm Access CEA.
Một số hoạt chất điều trị được kiểm tra (ở nồng độ được đề cập trong bảng dưới đây) và được xác định phần trăm thu hồi. Các yếu tố này không gây nhiễu đáng kể đến kết quả xét nghiệm.
Chất | Nồng độ thêm vào | Trung bình độ thu hồi (%) |
Bleomycin | 0,1 IU/mL | 102,92 |
Cisplatin | 1,5 µg/mL | 100,16 |
Cyclophosphamid | 3000 µg/mL | 102,62 |
Doxorubicin | 100 µg/mL | 99,65 |
Fluorouracil | 360 µg/mL | 102,59 |
Leucovorin | 60 µg/mL | 102,44 |
Methotrexat | 4500 µg/mL | 101,40 |
Mitomycin | 60 µg/mL | 98,88 |
Tamoxifen | 133 µg/mL | 102,68 |
Vinblastin | 1,2 µg/mL | 98,41 |
Vincristin | 0,7 µg/mL | 99,93 |
ÁP DỤNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG
Xét nghiệm này đã được triển khai làm thường quy tại Khoa Sinh Hóa BVĐK Đức Giang giúp cho các bác sỹ lâm sàng chẩn đoán, theo dõi điều trị và theo dõi tái phái các bệnh ung thư đường tiêu hóa: ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng, ung thư tụy..
Người viết: Cao Văn Hải