Viêm màng não, viêm màng tim, viêm nắp thanh quản, nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, viêm tủy xương... do vi khuẩn Haemophilus influenzae týp b (Hib) gây ra. Nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong.
1. Đặc điểm vi khuẩn haemophilus influenzae
Vi khuẩn haemophilus influenzae là vi khuẩn nhỏ, gram âm và có rất nhiều hình dạng khác nhau, loại vi khuẩn này thuộc dòng kỵ khí và ưa khí. Vi khuẩn haemophilus influenzae đã được phân lập thành 6 type từ a đến z, trong đó vi khuẩn haemophilus influenzae type b hay còn gọi là vi khuẩn Hib là nguyên nhân gây bệnh chủ yếu ở trẻ nhỏ dưới 6 tuổi.
2. Vi khuẩn haemophilus influenzae lây lan như thế nào?
Những bệnh do vi khuẩn haemophilus influenzae có khả năng lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp với chất bài tiết hoặc đường không khí, sau khi xâm nhập vào cơ thể người, vi khuẩn haemophilus có khả năng gây bệnh toàn thân, theo đường máu đến màng não.
Vi khuẩn Hib gây bệnh chủ yếu ở đối tượng trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ dưới 2 tuổi là đối tượng dễ có nguy cơ nhiễm bệnh cao nhất. Từ 2 tuổi trở lên, trẻ sẽ có miễn dịch phòng bệnh thông qua việc tiếp xúc tự nhiên với bệnh.
Vi khuẩn Hib xâm nhập vào cơ thể người đến màng não
3. Vi khuẩn haemophilus influenzae gây ra triệu chứng gì?
Vi khuẩn haemophilus influenzae có thể mất từ 2 đến 4 ngày để làm xuất hiện những triệu chứng trên cơ thể của người bệnh. Tùy thuộc vào một số yếu tố, đặc biệt là vị trí cơ thể người bệnh bị vi khuẩn Hib tấn công mà sẽ xuất hiện những triệu chứng bệnh lý khác nhau:
Trường hợp trẻ bị viêm màng não do vi khuẩn Hib thì sẽ có biểu hiện như sợ ánh sáng, cứng cổ, biếng ăn, ngủ gà ngủ vịt, dễ bị kích thích và sốt cao.
Trong trường hợp vi khuẩn haemophilus influenzae gây bệnh viêm phổi ở trẻ thì sẽ gây ra triệu chứng khó thở, suy hô hấp, sốt cao....
Nếu trẻ bị viêm nắp thanh môn do vi khuẩn haemophilus influenzae thì sẽ có những triệu chứng như sốt cao, khó thở, chảy nước dãi và bứt rứt trong người.
Những bệnh lý như viêm màng não, viêm phổi, viêm nắp thanh môn... do Vi khuẩn haemophilus influenzae gây ra ở trẻ nhỏ nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến tử vong.
4. Điều trị bệnh do vi khuẩn haemophilus influenzae gây ra
Để điều trị các bệnh lý do vi khuẩn haemophilus influenzae gây ra ở trẻ nhỏ thì cha mẹ cần phải đưa trẻ đến bệnh viện để được bác sĩ thăm khám và chẩn đoán tình trạng sức khỏe và đưa ra phác đồ điều trị phù hợp.
Một số loại thuốc được khuyên dùng để điều trị bệnh do vi khuẩn haemophilus influenzae gây ra bao gồm: Cephalosporin, ampicillin... và thời gian điều trị nên kéo dài 1-2 tuần. Ngoài ra, có thể sử dụng glucocorticoid để làm giảm tỷ lệ di chứng thần kinh... Trong trường hợp để tránh vi khuẩn kháng thuốc đối với các dòng vi khuẩn sản xuất được beta-lactamase và kháng ampicillin thì cần phải sử dụng một trong các thuốc thay thế là trimethoprim-sulfamethoxazol, các cephalosporin phổ rộng, clarithromycin... Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc như thế nào cần tuân thủ theo chỉ dẫn của bác sĩ điều trị.
Trường hợp bệnh nhân bị viêm nắp thanh quản thì có thể sử dụng thở máy đến thông đường thở và chống viêm tắc đường hô hấp.
Trẻ nhiễm vi khuẩn haemophilus influenzae cần được điều trị tại bệnh viện
5. Phòng bệnh do vi khuẩn haemophilus influenzae
Để phòng các bệnh lý do vi khuẩn Hib gây ra thì tiêm phòng vắc-xin là biện pháp mang lại hiệu quả cao nhất. Theo khuyến cáo thì tất cả trẻ em đều cần được tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh do vi khuẩn Hib gây ra từ lúc 2 tháng tuổi. Ngoài ra, cha mẹ cần đảm bảo vệ sinh sạch sẽ và cho trẻ ăn đảm bảo chất dinh dưỡng. Vệ sinh răng miệng và điều trị tích cực các bệnh tai mũi họng cho trẻ...
Hiện nay, vắc-xin phòng bệnh do vi khuẩn Hib có thể được dùng dưới dạng vắc-xin phối hợp nhằm phòng thêm các bệnh khác trong cùng 1 mũi tiêm, nhằm giảm số mũi tiêm và giảm đau cho trẻ. Cha mẹ cần tìm hiểu và hoàn thành phác đồ tiêm chủng cho trẻ để giúp phòng bệnh hiệu quả và an toàn.
6.Liên hệ khoa phòng
Hiện nay tại khoa Vi sinh – Bệnh viện đa khoa Đức Giang có sử dụng máy Vitek 2 trong việc định danh vi khuẩn và làm kháng sinh đồ , giúp các khoa lâm sàng nhanh chóng có hướng điều trị phù hợp và kịp thời cho bệnh nhân.